Báo Người Đô Thị – LTS. Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global, trụ sở tại Paris – Pháp) đang thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ do TP.HCM đặt hàng về “Xây dựng chiến lược phát triển hình ảnh, thương hiệu TP.HCM đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cho biết sau khi nghiệm thu, nội dung đề xuất từ kết quả của nhiệm vụ khoa học công nghệ này sẽ bao gồm định vị thương hiệu TP.HCM và những ý tưởng bổ sung cho phát triển TP.HCM, trong đó chiến lược thương hiệu sẽ phải phù hợp với những định hướng về kinh tế, xã hội TP.HCM đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Đồng thời, kết quả nhiệm vụ phải cụ thể, khả thi trong hoạt động phát triển văn hóa và du lịch thành phố.
Muốn xác định thương hiệu một thành phố, không thể không bàn đến những giá trị cốt lõi làm nên căn tính của nó. Nhân kỷ niệm 49 năm ngày hòa bình, thống nhất đất nước (1975 – 2024), Người Đô Thị có cuộc trò chuyện đa chiều với nhà đô thị học PGS-TS. Tôn Nữ Quỳnh Trân – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển TP.HCM, cùng ghi nhận một số ý kiến của chuyên gia, nhà quản lý, thị dân Sài Gòn về những giá trị cốt lõi của Sài Gòn, nay là TP.HCM.
PGS-TS. Tôn Nữ Quỳnh Trân là một nhà nghiên cứu văn hóa đô thị, nhất là những vấn đề liên quan vùng đất Sài Gòn. Bà là út nữ của giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ mà tên tuổi gắn liền với phong trào đòi dân chủ và hòa bình ở miền Nam trước 1975.
Câu chuyện mở đầu từ chính công trình nghiên cứu của PGS-TS. Tôn Nữ Quỳnh Trân – những con hẻm Sài Gòn. Bà nhận định: “Các con hẻm của thành phố được chia nhánh chân rết từ các con đường chính, đi sâu vào trong, tạo thành mạng lưới khu dân cư. Trong các con hẻm này chúng ta dễ dàng nhận thấy một cuộc sống khác hẳn với các sinh hoạt thường thấy ở các con đường mặt tiền. Ở đây có nhịp độ chậm hơn, có tính cộng đồng cao hơn, khác hẳn với sự cạnh tranh, đua chen ở bên ngoài.
Cuộc sống hẻm phố là môi trường sinh hoạt chính của những người không phải tất bật với công việc bên ngoài như bà nội trợ, người già, trẻ em, thợ thủ công… Sinh hoạt của con người trong hẻm có khác nhau theo lứa tuổi. Đối với người trung niên, lớn tuổi, một chỗ rộng phình ra hay quán cóc đầu hẻm là nơi để ngồi lại với nhau cùng chơi một ván cờ, uống một ly trà hay bàn tán thời sự, tin tức.
Với trẻ con, hẻm là nơi chơi đùa và cũng là dịp tập cho chúng tính đoàn kết, tinh thần tập thể. Với người bôn ba kiếm sống ở bên ngoài, thì con hẻm là nơi tĩnh lặng mà căn nhà của họ ẩn mình… Đó là hẻm Sài Gòn, một trong những giá trị văn hóa vật thể của thành phố bên cạnh các công trình kiến trúc, cảnh quan, các thiết chế văn hóa, dịch vụ đô thị hay ẩm thực”.
Sài Gòn đã quen tiếp nhận cái mới
Từ góc độ nghiên cứu, xin bà cho biết những phát hiện mang tính khái quát nhất về giá trị văn hóa phi vật thể cốt lõi, khác biệt của Sài Gòn mà những nơi khác không có?
Nói Sài Gòn có cái mà nơi khác không có thì không đúng. Nơi khác cũng có nhưng Sài Gòn thì đậm nét hơn. Trong quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy cái đậm nét nhất của văn hóa Sài Gòn – TP.HCM là sự cởi mở và bao dung. Cởi mở, bao dung gần như song hành với nhau theo nghĩa một đô thị thoáng, mở có điều kiện. Nghĩa là đón nhận những cái mới, cái hay, cái lạ và chấp nhận một cách có điều kiện trong sự bao dung. Bao dung tạo môi trường để nó bám vào văn hóa thành phố và phát triển. Đấy, cái mà tôi thấy các thành phố khác đều có nhưng không đậm nét như sự bao dung, cởi mở của Sài Gòn.
Đó có phải nhờ không gian, thể chế pháp luật thúc đẩy xã hội phát triển về thông thương, kinh tế thị trường và xã hội công dân vốn đã được định hình từ thời Chúa Nguyễn đi mở cõi cho đến thời Pháp thuộc và sau này trong quá trình xây dựng, hình thành nên thành phố?
Tôi muốn nói đến trước hết là do địa chính trị của TP.HCM. Đó là một vị trí hội tụ của rất nhiều con đường. Đầu tiên là đường biển. Từ thế kỷ XVII – XIX, rồi sau này nữa, các nhà du hành đều đi theo đường biển để đến được thương cảng Sài Gòn. Đi liền với đường biển, thành phố này còn một chức năng lớn là đô thị sông nước. Ngoài hệ thống kênh rạch chằng chịt tự nhiên, chúng ta nhớ rằng năm 1772, Chúa Nguyễn cho đào con kênh Ruột Ngựa thẳng tắp nối liền Rạch Cát đến kênh Lò Gốm để thông thương ghe thuyền chở lúa gạo từ Long Hồ đến Gia Định được thuận lợi.
Sau đó, năm 1819, vua Gia Long lại cho đào kênh Tàu Hũ (sông An Thông) thành tuyến đường thủy huyết mạch nối Sài Gòn – Gia Định với miền Tây. Tất cả có thể dẫn đến ngã ba vàm Bến Nghé, tức nút giao kênh Tàu Hũ với rạch Bến Nghé, để tiếp tục ra sông Sài Gòn.
Đó là những đường thủy mà ghe thuyền từ đất liền phía Tây Nam hoặc Campuchia có thể đi tới, tàu bè ngoài biển cũng có thể chạy vào qua Cần Giờ, Soài Rạp tới “Nhà Bè nước chảy chia hai” là chỗ hội tụ của Sài Gòn xưa, để “Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”. Ở đây xin mở ngoặc một cách đáng tiếc là đô thị của chúng ta đều có dòng sông nhưng chỉ phát triển một bên. Đến nay, trong khi chỉ TP.HCM đang trăn trở vượt sông thì các địa bàn khác ở Nam bộ, dòng sông vẫn còn chảy bền bỉ với một bên là những đô thị đang tiếp tục phát triển.
Về đường bộ, từ xa xưa Sài Gòn đã nằm trên hai trục thiên lý cũ Bắc – Nam (đường Xô Viết Nghệ Tĩnh ngày nay) chạy qua Bình Quới, vượt sông Sài Gòn để ra Bắc và thiên lý cũ Đông – Tây đi qua đường Cách Mạng Tháng Tám hiện giờ. Ngoài ra, còn phải kể đến con đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho. Con đường đó cũng làm cho Sài Gòn tiếp cận dễ dàng hơn với đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài yếu tố trên, tính cởi mở, bao dung còn biểu hiện ở đâu nữa, thưa bà?
Theo tôi, còn ở rất nhiều khía cạnh. Ví dụ thành phố tiếp nhận luồng nhập cư từ các nơi đến rất nhiều. Ban đầu là di dân khẩn hoang thời xưa. Đến 1954, đây là nơi tiếp nhận số lượng lớn người dân miền Bắc vào; với tư tưởng khác, tôn giáo khác, nhưng tới đây họ vẫn sống được, vẫn làm việc, phát huy được. Tại sao vậy? Bởi vì Sài Gòn đã tiếp nhận quá nhiều người mới nên quen rồi! Chắc chắn là có sự dè chừng, nhưng người thành phố không hề có thành kiến khi tiếp nhận.
Một tính cách Sài Gòn nữa là tiên phong. Bên cạnh đi đầu trong các phong trào xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương, thanh niên tình nguyện… thì thành phố tiếp nhận những cái mới trong tư tưởng một cách rất nhẹ nhàng. Tờ Gia Định Báo, rồi Phụ Nữ Tân Văn là những tờ báo đầu tiên ở Việt Nam, hoặc tư tưởng rất mới của La Cloche Fêleé (Tiếng Chuông Rè) của Nguyễn An Ninh. Về truyền thông, ta thấy Bưu điện TP.HCM không những có từ rất sớm mà trong phạm vi “con đường” nối các tỉnh, để Sài Gòn không lẻ loi một mình.
Tiên phong giáo dục với Võ Trường Toản, người đã lập các trường dạy học ở đình, nơi sản sinh rất nhiều học trò lỗi lạc của ông như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu… Sau đó có những trường tiên phong Tây học như Chasseloup – Laubat, Marie Curie… rồi Gia Long, Trưng Vương.
Tôi phải nói đến tính hiện đại. Tại nơi kinh doanh với thị trường rộng mở, thì Hãng đóng tàu Ba Son là tiêu biểu cho tính hiện đại rất lớn của thành phố. Tất cả kỹ thuật tiên tiến, tầng lớp có năng lực quản lý và truyền thụ kiến thức đóng tàu của phương Tây đã hiện diện ở Ba Son.
Khía cạnh nữa là tính đa dạng trong tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Ấn giáo, Hòa Hảo…) và đa dạng dân tộc (Chăm, Khmer, Hoa…). Ở đây cũng quy tụ rất nhiều lễ hội với hơn 300 ngôi đình. Rồi tính hào hùng mà các nhà báo hay gọi “tính hào sảng”, thì văn hóa đấu tranh của Sài Gòn ngày xưa độc đáo, nổi bật nhất cả nước. Các phong trào sinh viên tranh đấu, biểu tình trước 1975 cho ta những Trần Văn Ơn, Quách Thị Trang… Huế cũng nổi tiếng tranh đấu nhưng chỉ dừng ở đấu tranh tôn giáo, còn Sài Gòn thì chiến đấu không chỉ vì Phật giáo mà còn nhiều điều khác nữa.
À, cũng cần đề cập đến tiếp thu văn hóa nước ngoài. Sài Gòn là nơi hấp thụ văn hóa nước ngoài sớm nhất, như chúng ta biết The Beatles đã du nhập sớm tại đây. Trịnh Công Sơn nói rõ sự khắc khoải của con người. Đó chính là mầm mống hiện sinh ở trong đầu, trong âm nhạc của ông và Sài Gòn. Hay như Tôn Thất Lập, tuy nhạc đấu tranh nhưng mà lại đi vào lòng người.
Vốn xã hội tạo nên Sài Gòn
Vậy có phải chỉ ở Sài Gòn, người dân tứ xứ về đây mới tạo ra được những giá trị bản sắc của thành phố như năng động, sáng tạo, luôn sẵn sàng “sắp xếp” một cuộc chơi sòng phẳng khi phải đối diện với các mặt của đời sống. Nhưng tại sao khi đi nơi khác hoặc trở về cố hương, họ không tạo ra được “hơi thở” đó nữa?
Tôi thú vị với câu hỏi. Tôi xin trả lời không chỉ với tư cách xã hội học, tất cả chúng ta biết mình sinh ra có nhiều vốn để sống trên đời. Vốn của ai đó là sức khỏe, ngoại ngữ, tiền bạc, dòng dõi… và còn có một cái vốn nữa, đó là vốn xã hội, tức là những mối quan hệ của mình. Khi đã xa rời quê hương rồi trở về lại, thì vốn xã hội của chúng ta không còn, cũng như môi trường xã hội cũng không có để phát huy.
Chính vì vậy, khi trở về cố hương, họ đã mất đi hay để sau lưng nguồn vốn cơ bản đó của con người. Họ thiếu đi nguồn vốn xã hội chính, cho nên không thể xây dựng được ở nơi cố quận của mình tính đa dạng, trẻ trung của Sài Gòn. Một con người thành công, nhờ vốn xã hội nhiều lắm. Trong phạm vi câu hỏi này, tức là ta chỉ mang con người ta trở lại cố hương thôi, không thể mang Sài Gòn theo được.
Một Sài Gòn – TP.HCM với sức mạnh mềm như vậy, không biết qua bao nhiêu đổi thay, có còn tồn tại?
Nếu chúng ta chú tâm thì thấy hình như nó vẫn lãng đãng đâu đây. Dù hơi xa, có gì đó chập chờn nhưng suy xét kỹ lại, nó vẫn còn mà không phải yếu đâu, ngược lại nữa. Ví như ngoài hào sảng, nghĩa tình. Không phải vì đó là tuyên bố của một lãnh đạo nào đó mà tôi nói như vậy. Sài Gòn chính là nơi khởi xướng và lan tỏa ATM gạo, siêu thị 0 đồng và nhiều thứ nữa… Hào hùng đó vẫn còn mà có khi do ở cận cảnh quá ta không thấy. Bởi thứ nhất, yếu tố địa chính trị vẫn còn, không thể mất. Thứ hai, những đặc tính đó không phải mới xuất hiện. Nó đã bắt nguồn từ nhiều thế kỷ trước rồi.
Sau 1975, tất cả những cái ấy đều bị ảnh hưởng nhưng không lu mờ đi, tôi chắc chắn như vậy. Con người Sài Gòn vẫn mở, vẫn rất bao dung. Thể hiện qua rất nhiều ca sĩ sau này đã gây dựng được tên tuổi tại đây, thêm nhiều người nhập cư đã lập nên cơ nghiệp ở đây. Trong sự đa dạng, tôi cho rằng còn đa dạng hơn và chính vì thế mà làm cho con người ta bối rối. Bởi khi phải tiếp nhận quá nhiều luồng văn hóa, tự nhiên người ta nghĩ rằng có thể cái trước đây bị phá vỡ. Đặc biệt sau Đổi mới 1986, không chỉ có Anh, Pháp, Mỹ mà có cả luồng văn hóa, tư tưởng các nước xã hội chủ nghĩa nữa. Tôi thấy đa dạng hơn nhiều và chính cái đa dạng càng làm cho con người cảm thấy hoang mang trong cái sự quá mới đó.
Bà đánh giá thế nào về những giá trị hiện nay so với trước, ví như tôn sư trọng đạo, có bị khủng hoảng, có bị xâm phạm không?
Có thể trong những cuốn sách của tôi, màu hồng nhiều quá. Vì tôi cốt đi tìm nét văn hóa, nhưng cũng sẽ có những cái phản văn hóa mà xã hội nào cũng có.
Trên đường đến nhà bà, chúng tôi đi ngang qua lăng của Pétrus Trương Vĩnh Ký, người lập ra Gia Định Báo mà bà vừa nhắc tới…
Tôi vẫn thường qua thăm ông và thấy xót xa. Tại sao lại để cho lăng của ông thảm quá như vậy? Đi ngang hôi lắm. Nhưng có một nhà đô thị học tên là Louis Wirth, trong tác phẩm Urbanism as a Way of Life (Chủ nghĩa đô thị như một lối sống) rất nổi tiếng, đã cho rằng ở trong đô thị, ngoài những tính chất tích cực, nó có những tính phản diện. Con người hờ hững, lợt lạt với nhau. Tính cộng đồng không bằng nông thôn. Bởi tính cá nhân của người trong đô thị hết sức rõ nét.
Để giải thích tại sao lăng Pétrus Ký vẫn như thế vì chúng ta mang cái tính mặt tiêu cực đó của đô thị. Chúng ta không xem đó là việc của mình. Chúng ta đi, đứng ngoài cuộc, nhìn đời như thế. Louis Wirth gọi đó là tính chuyên biệt, tức là việc này không phải việc của tôi. Đó là một trong các tính xấu của đô thị. Mặt khác tính chuyên biệt lại tích cực khi mọi người phải tôn trọng tự do cá nhân của nhau. Tất cả có một phần trách nhiệm của mỗi người.
Nếu như không có gì bị lu mờ đi thì có cần cải thiện các quyết sách cho TP.HCM để bảo vệ, duy trì các giá trị đã bàn đến?
Do sự chập chờn của một giai đoạn nào đó, chứ tôi nghĩ Sài Gòn vẫn tốt hơn, mà sau khi Đổi mới thì chính TP.HCM là nơi đi mạnh nhất, sớm nhất trên mọi phương diện. Tôi cũng muốn nói là vật chất quyết định rất nhiều. Muốn văn hóa đẹp, tốt, phải đầu tư tiền của vào thôi. Có lúc chúng ta chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa, có làm được không? Tại sao trước đây lại có những cái đẹp như vậy dù nghèo? Các câu hỏi mình phải nghiên cứu thêm. Nhưng tôi nghĩ dù vật thể hay phi vật thể đi chăng nữa, muốn giữ gìn thì vấn đề vẫn là kinh phí để duy trì nó. Chuyện lăng Pétrus Ký có một phần nữa là thiếu tiền.
Giáo dục lý tưởng
Đề cao tính hào hùng và biểu hiện là sự đấu tranh của TP.HCM trước đây với những Trần Văn Ơn, Quách Thị Trang… vậy theo bà, làm sao để thành phố tiếp tục sản sinh ra những hào kiệt?
Tôi nghĩ mấy thiết chế văn hóa không tạo ra được, đó là do tính cách con người thôi. Tôi cho rằng việc giáo dục lý tưởng là cần thiết. Song song đó, để khơi dậy tinh thần cha anh, cần các biện pháp kích thích, bên cạnh các luật lệ, nguyên tắc. Cần tạo ra hưng phấn để nuôi dưỡng cái hào hùng trước kia. Tóm lại, ngoài các quy định để bảo đảm trật tự, phải kèm theo cơ chế kích thích tạo động lực.
Bà vào Sài Gòn năm nào?
Năm 1959, khi mới 15 tuổi. Lúc đó ba tôi, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, bị bắt đi khỏi địa phương là Huế. Ông dạy Trường Khải Định, vào đây là Marie Curie, Taberd rồi Vạn Hạnh, Văn khoa. Ở ngoài đó hồi nhỏ, tôi học Trường tiểu học Trần Cao Vân, trung học là Đồng Khánh, tới cấp ba vào đây tôi học Gia Long, rồi Văn khoa với chuyên ngành sử – địa… Sau 1975, tôi được đi học bên Bulgaria lấy tiến sĩ giai đoạn 1980 – 1987. Khi về là ba tôi mất.
Tôi có hai nghề mà nghề nào cũng vững: nghề dạy piano và nghiên cứu khoa học xã hội. Trước 1975, tôi chuyên dạy piano, học trò rất đông. Khi Viện Khoa học xã hội TP.HCM thành lập, vì có chuyên sử đã học ở Văn khoa, tôi cũng muốn qua nghiên cứu sử coi sao. Vì dù sao mình cũng là con một nhà nghiên cứu sử mà. Khi đó mới thấy là hai nghề khác hẳn nhau. Nghề dạy piano là cái đã viết sẵn ra, hầu như mình dạy theo người ta viết.
Tôi nói với ông: “Ba ơi, sao hai nghề này khác nhau quá, không biết con chuyển được hay không”? Ông nói rằng: “Con cứ coi cái nghề kia là nghề tay trái để con thư giãn, còn nghiên cứu là nghề tay phải. Nhưng con phải nhớ rằng nghề này phải có sáng tạo, phải có cái mới. Piano mình thụ động hơn, còn bên nghiên cứu phải chủ động hoàn toàn. Ngoài tiếp xúc với kiến thức rất nhiều, thì biết đâu con sẽ có một cái gì sáng tạo, tìm ra cái mới nào đó trong nghiên cứu”. Đấy là cái sâu sắc nhất ba dành cho tôi cũng như công trình về Hoàng Sa, Trường Sa mà ông để lại.
Ít người biết bà chơi và dạy piano. Có sự khác nhau giữa học trò trước và sau này không thưa bà?
Tôi phải cám ơn cái nghề này. Vì nó cho tôi có được cuộc sống vật chất dễ dàng. Trước 1975, phụ huynh đem con tới mà không ước vọng sâu xa con mình sẽ làm gì kiểu Đặng Thái Sơn đâu. Nhưng sau này, người ta có hoài vọng như vậy. Cái đó tôi cũng không hiểu nổi. Tôi đi học piano là vì ý của ba tôi. Khi còn ở Huế, ông vẫn nói với mẹ là cho con đi học piano. Thế là tôi với chị được đi học. Nhưng vì sự tình cờ tôi thi đậu vào Trường Quốc gia Âm nhạc thì tôi theo chuyên nghiệp thôi. Có những cái mặc định trong đầu ông rồi, coi như hiển nhiên cho con học piano là chuyện bình thường.
Xin cảm ơn bà.
Bà Tôn Nữ Quỳnh Trân tốt nghiệp tiến sĩ ngành khoa học lịch sử Đại học Sofia – Bulgaria (1984), là tác giả, chủ nhiệm và đồng chủ nhiệm nhiều công trình nghiên cứu: Lịch sử Việt Nam – Tổng quan dành cho ngành du lịch, tác giả, NXB Trẻ, 1997; Môi trường nhân văn và đô thị hóa ở Việt Nam, Đông Nam Á và Nhật Bản, chủ biên và đồng tác giả, NXB Tổng hợp TP.HCM, 1997; Văn hóa làng xã trước thách thức của đô thị hóa tại TP.HCM, chủ biên và đồng tác giả, NXB Trẻ, 1999. Các đề tài: Văn hóa làng xã trước sự thách thức của đô thị hóa tại các vùng ven ngoại thành TP. HCM; Cộng đồng Khmer tại TP.HCM; Cộng đồng Hồi giáo (Islam) tại TP.HCM.
TS. Hoàng Anh Tuấn (Giám đốc Bảo tàng Lịch sử TP.HCM):
Ba giá trị cần ưu tiên
Sài Gòn có nhiều giá trị văn hóa đặc trưng, song điểm nổi bật và dễ nhận diện nhất là sự hòa nhập và đa dạng văn hóa. Sài Gòn là nơi hội tụ, giao thoa của nhiều tộc người, tôn giáo và nền văn hóa trong tiến trình mở mang xây dựng vùng đất mới; tạo nên một bức tranh văn hóa phong phú, đa sắc màu. Con người Sài Gòn thể hiện nét tiêu biểu của sức sống, tính hào sảng của người dân phương Nam, năng động và thân thiện.
Để xây dựng “bộ ADN” nhận diện cho Sài Gòn – TP.HCM và định hình chính sách quản trị thương hiệu đô thị, có thể ưu tiên các giá trị như: 1. Sự đa dạng văn hóa và lịch sử: Tôn trọng và bảo tồn các di sản văn hóa, lịch sử đa dạng của thành phố, từ di tích cổ xưa đến nền văn hóa hiện đại. 2. Sự sáng tạo và đổi mới: Khích lệ sự sáng tạo và đổi mới trong các lĩnh vực như công nghệ, nghệ thuật, kinh doanh, góp phần làm nên sức hút và tiềm năng phát triển của thành phố. 3. Sự hòa nhập và đa văn hóa: Tạo ra một môi trường đa văn hóa, hòa nhập và chào đón người dân, du khách, nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới.
TS. Trương Hoàng Trương (Khoa Đô thị học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM):
Tôn trọng sự đa dạng trong thống nhất đô thị
Sài Gòn – TP.HCM, đô thị này trong quá trình hình thành và phát triển đã mang trong mình nhiều giá trị văn hóa – lịch sử – xã hội độc đáo, trong đó tính đa dạng là một đặc điểm mà tôi thấy nổi bật nhất: đa dạng về cư dân, tôn giáo, văn hóa. Đô thị có khả năng thu hút những người có chung một cơ sở để tạo nên những nhóm cư dân, cộng đồng. Vì thế xã hội đô thị của Sài Gòn – TP.HCM được một số nhà nghiên cứu ví như một bức khảm gồm từng nhóm xã hội, từng thành phần khác nhau. Từng nhóm xã hội ấy lại có cùng cơ sở chung nào đó của riêng mình, như quê hương, họ hàng, sắc tộc, tôn giáo, giai tầng, khu dân cư, nghề nghiệp.
Ở đây, đô thị không làm yếu đi sự liên kết xã hội trong cùng một nhóm mà ngược lại tạo sự gắn kết không chỉ trong một nhóm mà giữa nhóm này với nhóm khác và điều đó tạo nên những giá trị văn hóa khác khi nói đến thành phố như tính tương trợ, nghĩa tình, cởi mở, bao dung… Các mối liên hệ, liên kết được duy trì giúp họ có thể trụ được và gắn bó trong môi trường chuyển động nhanh của đô thị như TP.HCM. Chẳng hạn như phố Tây Bùi Viện (quận 1), phố Đông y ở đường Hải Thượng Lãn Ông (quận 5), cộng đồng người Chăm (phường 1, quận 8), Cộng đồng giáo dân xứ Bùi Phát đường Lê Văn Sỹ…
Để xây dựng chính sách của thành phố hướng đến giá trị này, theo tôi phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng sự đa dạng trong thống nhất của đô thị. Chúng ta cần có những chính sách cụ thể hơn; các chương trình, hoạt động rộng rãi hơn nữa.
Chẳng hạn ngoài các ngày lễ truyền thống, sự kiện trọng đại của quốc gia, của thành phố, ta có thể có những chương trình của các cộng đồng dân tộc thiểu số, các hoạt động kinh tế đặc trưng như nghề thủ công của một nhóm cộng đồng cư dân đô thị như làm đàn, nghề dệt hoặc đan mây tre, làm gốm… được tổ chức lồng ghép trong các dịp lễ hội. Có như vậy giá trị của sự đa dạng mới có thể bước ra ngoài cuộc sống đô thị, không chỉ cho cư dân thành phố mà còn cho khách du lịch khi đến đây.
Chị Bùi Thị Tường Vi (nhân viên Bảo tàng Lịch sử TP.HCM):
Bảo tồn di sản để phát triển bền vững
Vùng đất Sài Gòn – TP.HCM với hơn 300 năm hình thành và phát triển, giờ đây trở thành đô thị năng động, một trung tâm kinh tế lớn, trọng điểm ở khu vực phía Nam. Nơi đây chứa đựng rất nhiều giá trị quý báu. Trong đó nổi bật và rất dễ để nhận diện Sài Gòn – TP.HCM là những giá trị lịch sử – văn hóa như Dinh Độc lập, Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Thành phố, chợ Bến Thành, Bưu điện Thành phố… Đây được xem là những “nhân chứng lịch sử” ghi dấu cho từng giai đoạn hình thành và phát triển của vùng đất này. Nhắc đến Sài Gòn – TP.HCM, người ta sẽ nhớ đến những công trình kiến trúc tiêu biểu, nhớ cơm tấm, bánh mì, hay sự thân thiện của người dân…
Nếu đề xuất thì tôi sẽ ưu tiên chọn giá trị lịch sử – văn hóa để giữ gìn và phát triển, bởi di sản là “ký ức” của cộng đồng và bảo tồn là một phương thức để phát triển bền vững.
Chị Nguyễn Thị Nguyệt (Trưởng phòng Sưu tầm – Thư viện – Tư liệu Bảo tàng lịch sử TP.HCM):
Thành phố dễ sống nhất
Sài Gòn – TP.HCM là một đô thị năng động và phát triển, nhưng cũng mang trong mình nhiều giá trị lịch sử – văn hóa, mang những đặc trưng rất riêng biệt của một vùng đất từng được xem như “Hòn ngọc Viễn Đông”. Sài Gòn có rất nhiều giá trị cốt lõi, như: về mặt lịch sử, với hơn 300 năm hình thành và phát triển trên cơ sở những nền văn hóa bản địa đặc sắc như văn hóa Đồng Nai, văn hóa Óc Eo, vùng đất Sài Gòn chứa đựng những bí ẩn lịch sử. Như mộ chum Giồng Cá Vồ, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu thuộc văn hóa Đồng Nai, những di tích thuộc văn hóa Óc Eo, những lò gốm cổ mang dấu ấn của một dòng gốm riêng biệt… TP.HCM đã phát hiện được hàng chục di tích khảo cổ học và hàng trăm di tích lịch sử – văn hóa, di tích lịch sử cách mạng.
Về mặt văn hóa, Sài Gòn được xem như cửa ngõ đón những luồng văn hóa mới, học tập và cải biên cho phù hợp với bản chất của vùng đất này. Những nét văn hóa bản địa hòa cùng những yếu tố mới đã trở thành bản sắc rất riêng của Sài Gòn, trong đó có những di sản đô thị. Dù không phải người Sài Gòn gốc, nhưng mỗi khi có bạn bè đến chơi, tôi thích đưa các bạn đi vòng quanh Sài Gòn, kể cho họ nghe về những di sản như chợ Bến Thành, nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Thành phố, bến Bạch Đằng, đường hoa Nguyễn Huệ, chùa Ngọc Hoàng… Kết thúc mỗi chuyến đi, ít nhiều bạn tôi cũng hiểu hơn về Sài Gòn và nhận xét “Sài Gòn thật thú vị”!
Về mặt lối sống thì có lẽ đây là thành phố dễ sống nhất theo cảm nhận của tôi. Bởi vì người Sài Gòn rất hào sảng. Bạn có thể đi đây đó mà không sợ lạc đường vì chỉ cần bạn hỏi thì những người bên đường sẽ nhiệt tình chỉ giúp bạn; bạn sẽ không lo bị “chặt chém” vì giọng nói của mình không phải người bản địa… Người Sài Gòn tốt bụng và hào hiệp, ngay cả với người không quen biết.
Một điều không thể thiếu là ở thành phố này có rất nhiều bảo tàng. Những bảo tàng ở đây đáp ứng đầy đủ sự quan tâm của bạn về lịch sử – văn hóa của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng, đây là điểm rất khác của Sài Gòn so với những thành phố khác.
Tất cả những ưu điểm ấy đều rất đáng trân trọng để bảo tồn. Nếu được chọn, tôi sẽ chọn bảo tồn tất cả. Nhưng nếu phải ưu tiên chọn lựa thì tôi chọn những di sản văn hóa. Vì di sản không chỉ cho chúng ta những bài học về quá khứ mà còn trang bị những kinh nghiệm, kiến thức và hành trang để tự tin tiến bước vào tương lai.
GS. Tôn Thất Dương Kỵ (1914 – 1987)
Là một nhà hoạt động cách mạng tại miền Nam trước 1975, GS. Tôn Thất Dương Kỵ từng giữ chức vụ Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (1968 – 1976).
Ông tham gia hoạt động trong tổ chức Trí vận do Thành ủy Huế tổ chức, tham gia phong trào Hòa bình miền Trung, bị lao tù và trục xuất khỏi Huế năm 1955.
Trong giai đoạn 1955 – 1965, ông vào Sài Gòn và được mời làm giáo sư trường Marie Curie, Taberd, Đại học Văn khoa, Đại học Vạn Hạnh và một số trường tư thục ở Sài Gòn… Trong lòng Sài Gòn, ông đã cùng các nhà trí thức xây dựng Phong trào Dân tộc Tự quyết Việt Nam và Ủy ban Vận động Hòa bình. Vì những hoạt động công khai này, chính quyền Sài Gòn bắt cầm tù ông nhiều lần và tống xuất ông qua khỏi cầu Hiền Lương vào tháng 3.1965 mà không biết ông đã là Ủy viên Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.
Trong giai đoạn 1965 – 1975, ông hoạt động tại Campuchia, Lào và trong vùng giải phóng. Ông trở thành Bí thư Đảng đoàn kiêm Tổng thư ký Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam vào năm 1968.
Từ sau ngày 30.4.1975, GS. Tôn Thất Dương Kỵ chuyên tâm nghiên cứu về quá trình xác lập, thực thi và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và công bố nhiều bài báo, công trình khoa học liên quan đến vấn đề trên.
Quốc Ngọc – Trà My thực hiện